Lúa tẻ (Oryza sativa L. var. utilissima A. Camus) bên cạnh lúa nếp là hai loại lúa chính ở Việt Nam. Lúa tẻ thường được gọi chung là “lúa” (“canh mễ”) để phân biệt với “nếp”, hiểu là lúa nếp (“nhu mễ”). Cây lúa tẻ thuộc dạng thân thảo rỗng, có thời gian sinh trưởng tùy theo giống ngắn ngày hoặc dài ngày. Khi lúa chín, lá lúa từ màu xanh chuyển sang màu vàng. Hoa lúa nhỏ, màu trắng sữa và tự thụ phấn. Hạt lúa (thóc) thuôn dài, có vỏ trấu bên ngoài và nhân (gạo) màu trắng đục. Lúa tẻ có nhiều giống khác nhau với các đặc tính dẻo như Nàng Xuân, Hương Lài, 4900, Jasmine… hay khô như 504, bụi sữa thơm…
Gạo tẻ để nấu cơm ăn hàng ngày có vị ngọt, tính mát bình, giúp điều hòa tì vị và bổ khí huyết. Bên cạnh việc dùng để nấu cơm ăn hàng ngày nhằm đảm bảo nguồn dinh dưỡng cho sự sống, gạo tẻ còn được dùng cho người nôn mửa, rối loạn tiêu hóa, trúng thực, khó tiêu, tiêu chảy háo khát do mất nước, đồng thời giúp hồi sức cho người bệnh… Cách làm rất đơn giản: lấy một bát gạo tẻ, rang cháy vàng, thơm rồi sắc uống thay cho nước (1) (mà ông bà ta thường cải biến thành cháo gạo rang như chúng ta đã biết).